Văn hóa đại chúng Hình_tượng_loài_thú_trong_văn_hóa

Vì gần gũi với con người loài thú là nguyên mẫu cho những hình tượng hư cấu trong văn hóa đại chúng, cũng như trong cuộc sống thường nhật. Một số loài thú đã được lựa chọn để nhân hóa, tạo nên những hình tượng phổ biến trong văn hóa và truyền thông. Trong văn hóa phương Tây ngày nay, một bộ phận có tham gia diễn trò nhập vai thú (Animal roleplay) với ít nhất một người tham gia đóng vai thú và có thể được nhìn thấy trong bối cảnh BDSM, nơi một cá nhân có thể tham gia vào mối quan hệ thống trị/phục tùng bằng cách được đối xử như một con thú, thường được gọi là petplay, các thiết bị có thể được sử dụng trong trò chơi nhập vai thú gồm dây xích, miếng bịt miệng, vòng cổ, dây nịt trói, bộ đồ lót, quần tất, dây buộc mông, rọ mõm, ủng ba lê.

Vở kịch Equus năm 1973 của Peter Shaffer kể về câu chuyện của một người đàn ông trẻ tuổi có niềm đam mê tôn giáo bệnh hoạn với con ngựa, nhưng điều này có vẻ gần giống với bệnh zoophilia hơn là trò chơi thú cưng, một số trường hợp có thể được coi là một kiểu tưởng tượng biến đổi thành thú (thú hóa). Chứng tự sướng là chứng kích thích tình dục phụ thuộc vào việc hành động hoặc tưởng tượng mình là thú vật và bệnh tự sướng sẽ biểu hiện cho một dạng tự luyến thú (zoophilia) được thực hiện bằng cách mặc trang phục thú, chẳng hạn như mặt nạ cao su, trang phục thú vật hoặc bộ đồ nỉ.

Mỗi kiểu chơi có thể tập trung vào một “thế mạnh” nhất định của nhân vật vào vai loài vật. Một số người tin rằng họ có một số bản năng động vật nhất định và thông qua việc nhập vai động vật có thể khiến họ bộc phát. Trong cảnh BDSM, mọi người tham gia đóng vai thú vật để xây dựng các kết nối cảm xúc mạnh mẽ hơn, phát triển mối quan hệ tình cảm sâu sắc với vật nuôi của họ. Ngoài ra còn có chứng Plushophilia tức là mắc căn bệnh chứng bị hấp dẫn tình dục với thú nhồi bông, là sư ham muốn tình dục chỉ có khi được ở bên cạnh thú nhồi bông, nhiều người chơi khoét một lỗ trên thú nhồi bông của họ gợi nhớ đến những lỗ hổng trên đồ chơi tình dục (búp bê tình dục) để cho họ làm tình với nó.

Sừng quỷ

Chỉ dấu bằng tay chỉ về Dấu hiệu sừng quỷ của một nghệ sĩ trong một buổi trình diễn trước đám đông

Quỷ Satan vốn một con quỷ có sừng thú (sừng bò hay sừng dê) đại diện cho mọi điều tội lỗi của thế giới là một hình tượng khá quen thuộc trong văn hóa hiện đại, Satan còn có một phiên bản khác là Baphomet một vị thần sừng, một vị thần cổ xưa và ngày nay Baphomet là một hình tượng phổ biến trên phim ảnh, âm nhạc (đặc biệt là nhạc rock) với ý nghĩa của sự phản kháng về tinh thần[80]. Quỷ Satan được gọi là “kẻ chống đối lại Thiên Chúa” và sừng trong Kinh Thánh mô tả đến việc chống đối. Dấu hiệu “Sừng của Satan” biểu thị cho các luật lệ của Satan. Bí ẩn của sự gian ác được nói đến trong Kinh thánh là ám chỉ đến một nhóm người quyền thế sẽ truyền cảm hứng của ma quỷ bằng ký hiệu dấu tên sừng quỷ.

Trong văn hóa đại chúng ngày nay, “Sừng của Satan” hay còn gọi là “Dấu hiệu sừng quỷ” là một dấu hiệu tay phổ biến của các chính trị gia, của giới Hollywood và cả những tù nhân phạm trọng tội. Người làm ký hiệu tay này chính là để bày tỏ sự trung thành của họ đối với quyền lực của Satan và cũng là lời chào Satan. Đã có nhiều chính trị gia cao cấp trên thế giới làm dấu tay quỷ Satan như một sự công nhận về lòng trung thành của những thành viên theo “chủ nghĩa Satan”, và cam kết mang lại một Trật tự Thế giới Mới.

Hellen Keller, một triết học gia về thần linh, người đã sáng lập nên hội triết học thần linh năm 1875 từng phát biểu rằng: "Chỉ có một mình Satan là chúa tể hành tinh chúng ta, chỉ duy nhất một mình Satan là chúa tể" và bà này được cho là đã sáng tạo ra cử chỉ này. Bằng sự lan truyền mạnh mẽ, ngày nay biểu tượng của quỷ Satan đã xuất hiện ở khắp mọi nơi và được nhiều người sử dụng nhưng không hề biết nguồn gốc nguy hiểm của nó, những khán giả lại giơ bàn tay được tạo hình với hai ngón giữa co lại và ngón trỏ, ngón út giơ lên với ngụ ý là biểu tượng "I love you" (Tôi yêu bạn).

Nhiều trong số người làm cử chỉ này dù không hiểu ý nghĩa thực sự của biểu tượng này nhưng vẫn sử dụng theo hiệu ứng đám đông và nghĩ đó là cách thể hiện tình yêu đối với thần tượng của mình. Tuy có ý nghĩa biểu trưng cho quỷ Satan, tuy nhiên biểu tượng "I love you" vẫn được rất nhiều bạn trẻ sử dụng hiện nay theo phong trào để thể hiện tình yêu với ai đó. Bộ kí hiệu mang ý nghĩa "I love you" phổ biến hiện nay có liên quan đến quỷ Satan. Đây là một trong những ký hiệu được sử dụng phổ biến trong giới ma thuật, Biểu tượng này được nhiều người nghĩ rằng mang ý nghĩa "I love you" nên vô tư sử dụng, bản thân nó đã được “chúc phước”, quỷ Satan đã trở thành một trong những biểu tượng phổ niến và được yêu thích bởi giới trẻ ở phương Tây ngày nay như là biểu tượng của sự phản kháng và nổi loạn.

Con mèo

Hình tượng miêu nữ
Catwoman là hình tượng phổ biến trong truyền thông đương đại về nữ nhân vật nóng bỏng, quyến rũ, gợi cảm, ma mị (hình trên) và hóa trang một cô miêu nữ khỏa thân trên đường phố (hình dưới)

Con mèo với những đặc điểm nữ tính và mỹ miều, ranh ma của nó là nguyên mẫu để tạo nên những nhân vật nữ với tính cách đa chiều trong văn hóa đại chúng. Những hình tượng phổ biến như nhân vật Miêu nữ Catwoman, một nhân vật đặc biệt, xuất hiện như một phản anh hùng thật sự. Miêu nữ được xây dựng với hình tượng nóng bỏng, tâm lý bất ổn nhưng không điên dại hay mang nét đáng sợ mà còn trong một mối quan hệ với Batman. Theo nguyên tác, Selina Kyle (Catwoman) không hề sở hữu sức mạnh đặc biệt mà ngẫu nhiên có sức mạnh và thay đổi tính cách trở nên hoang dại hay thói quen giống loài mèo. Miêu nữ là bậc thầy cải trang, đã cải trang thành một bà lão trên chuyến du thuyền nhằm chôm chỉa vài thứ từ những hành khách giàu có, khả năng cải trang hoàn hảo như là một thương hiệu.

Catwoman là một siêu trộm với đời tư rất bí ẩn và cô biết làm thế nào để giữ chúng trong bóng tối. Catwoman còn là biểu tượng gợi cảm, được thiết kế để trở thành một nhân vật mà Batman đấu tranh giữa việc bắt hay thả vì luôn bị thu hút bởi sự nóng bỏng đó, nên tình dục sẽ là một yếu tố gắn khá chặt với Catwoman mà các bộ phim đã đưa nó đến một số cấp độ hoang dã hơn cả như thể mọi thứ cô ấy làm là tỏ ra quyến rũ và gợi cảm trong mắt người khác. Mỗi phiên bản của Catwoman đều sử dụng khả năng gợi cảm và sex của nàng mèo để lừa gạt nam giới phải phục tùng cô ta.

Miêu nữ là nhân vật huyền thoại của màn ảnh, nhân vật này đã trở thành biểu tượng về sự quyến rũ và sức mạnh nữ quyền. Nhiều diễn viên nổi tiếng đã vào vai miêu nữ (Catwoman), diễn viên Julie Newmar là người đã biến Miêu nữ trở thành biểu tượng tình dục, còn Eartha Kitt tự nhận mình là con mèo hoang gợi cảm, còn Miêu nữ của Halle Berry thì cực kỳ quyến rũ và nóng bỏng[81]. Miêu nữ là một khái niệm vượt thời gian, là sự giao thoa nhịp nhàng của thời trang lẫn điện ảnh, từ nàng miêu nữ nóng bỏng trên màn ảnh, thời trang cũng đã có rất nhiều phiên bản quyến rũ và hấp dẫn[82].

Miêu nữ hay những cô nàng tai mèo gần như là hình ảnh quen thuộc của các cô nàng sexy, nóng bỏng. Các trang phục với hình tượng miêu nữ còn lấn sang thế giới ảo vọng của thời trang và được xem là một trong những xu hướng chủ đạo trong làng mốt. Hóa thân thành hình tượng miêu nữ đã không còn xa lạ với những cô nàng yêu thích phong cách sexy, gợi cảm trong giới giải trí, giêu nữ gần như là hình ảnh quen thuộc của các cô nàng sexy, nóng bỏng được lấy cảm hứng từ biểu tượng nữ siêu anh hùng Cat Woman. Bộ trang phục đen tuyền pha chút nét tinh ranh và bó sát gợi cảm chính là phong cách thời trang đặc trưng hiện đại của các cô gái trẻ trung[83]

Để hóa thân thành một miêu nữ, người hóa trang cần một bộ đồ bodysuit (bộ độ da bóng) bó sát toàn thân, dài phủ kín cơ thể. Chất liệu truyền thống của bộ đồ này là da hoặc PVC để diễn tả một cách hoàn hảo nhất những đường cong của cơ thể nữ giới. Cùng với đó là chiếc mặt nạ, đôi tai mèo nhọn hoắt, cái phụ kiện không thể thiếu khác là đôi giầy cao gót mũi vuốt cổ điển cùng chiếc thắt lưng độc đáo. Tạo hình miêu nữ được lột tả gợi cảm hơn khi phái đẹp tô son đỏ, kẻ mắt mèo sắc lẹm với nhiều nữ nghệ sỹ hóa thân thành miêu nữ nóng bỏng, táo bạo[84].

Bằng những trang phục hút mắt, đầy gợi cảm, độ điên, độc, dị với nàng mèo ngổ ngáo, miêu nữ vừa gợi cảm, ma mị nhưng cũng không kém phần gai góc, bó sát những phần da thịt gợi cảm, lột tả thần thái của một miêu nữ quyến rũ, nóng bỏng[85] Những bộ ảnh cosplay với phụ kiện tai, đuôi mèo, ngày càng trở nên phổ biến hơn trên khắp thế giới, những cô gái có đôi tai mèo còn trở thành một trong các biểu tượng của anime/manga vì gương mặt của mèo dễ khiến chúng ta liên tưởng đến gương mặt trẻ sơ sinh và điều đó khơi dậy nhu cầu sinh học sâu bên trong của loài người.

Những cô nàng tai mèo luôn xuất hiện gây chú ý với vẻ ngoài đáng yêu, mê hoặc và những hóa thân thành miêu nữ trong trang phục tai mèo kèm theo đó là một chiếc đuôi xám xinh xắn. Hình tượng của những cô Miêu Nhĩ (Nekomimi), đây là một dạng nhân vật nữ mang đôi tai mèo, đuôi mèo, hoặc có những đặc điểm giống như mèo khác. Một nekomimi thường xuất hiện trong anime, manga hoặc trong cosplay hoặc Actual body parts, kể cả trong một số game video.[86] đó là hình tượng của những nhân vật (con người) đôi khi được cho "mọc" thêm tai mèo và đuôi mèo nhằm thể hiện tính cách dễ bị kích động của họ, thường kết thúc câu nói của họ bằng tiếng nya, từ tượng thanh thể hiện tiếng kêu "meo meo" của loài mèo.

Trong thể loại truyện tranh Hentai của Nhật Bản cũng có thể loại về Catgirls (còn được gọi là "nekos" tiếng lóng của Nhật là "mèo") thì nhân vật có những bộ phận tương đồng với loài mèo như tai, móng và đuôi, đây là cách trong một số truyện, các nhân vật nữ được phác họa dưới hình dạng những con mèo hoang, với cách ăn mặc hở hang quá mức cùng lối sống bầy đàn với những suy nghĩ không bình thường về sex. Nhân hóa moe có hình tượng Kemonomimi nghĩa đen là "tai thú", là ý tưởng tạo hình các loại động vật thành những bishōjo hay bishōnen (nam thanh nữ tú), hoặc những nhân vật là người nhưng đeo phục sức là tai và đuôi của động vật. Nekomimi (cô gái/chàng trai mèo) là điển hình của thể loại này, mặc dù cô gái thỏ, cáo hay chó cũng rất phổ biến. Những nhân vật Kemonomimi thường có tính cách của loài người và một số phẩm chất bổ sung mang nét của động vật.

Báo săn

Barbara Ann Minerva hóa thân Cheetah trên trang bìa của Wonder Woman #28 (Tháng 3 năm 2009)

Có lẽ về mặt phương tiện thông tin đại chúng thì hình tượng con báo săn được biến đến nhiều qua nhân vật Cheetah trong bộ truyện tranh của DC Comic và được chuyển thể thành các tác phẩm điện ảnh. Đây là là một nhân vật siêu phản diện hư cấu xuất, nhân vật xuất hiện lần đầu tiên trong Wonder Woman #6 (cover-dated: mùa thu năm 1943)[87] được miêu tả là kẻ thù không đội trời chung của Wonder Woman. Đã có bốn hóa thân khác nhau của Cheetah kể từ khi ra mắt: Priscilla Rich (GoldenSilver Age Cheetah), Deborah Domaine (Bronze Age Cheetah), Barbara Ann Minerva và Sebastian Ballesteros. Năm 2009, Cheetah được IGN xếp hạng 69 trong danh sách Siêu tội phạm truyện tranh vĩ đại nhất mọi thời đại[88].

Trong nguyên tác ban đầu, Cheetah hay Barbara Ann Minerva hay là tiến sĩ Barbara Minerva là một nhà khảo cổ người Anh, sinh ra và thừa kế một tài sản khổng lồ của gia tộc cô ở Nottinghamshire. Khi biết được xuất thân của Diana và nơi cô sinh ra, Minerva đã may mắn đạt được mục đích khi tìm thấy vết tích của vị thần cổ đại có tên Urzkartaga-người đã ban cho Minerva sức mạnh và biến đổi cô ta thành dạng sống nửa người, nửa báo. Sau nhiều lần thất bại trong việc đánh cắp nó, Barbara đã quyết định phải tăng cường sức mạnh nếu muốn sở hữu món đồ của thần linh. Do vậy cô đã tìm đến thành phố cổ tại châu Phi và thực hiện nghi lễ hiến tế. Cô bắt đầu chuyến đi đến rừng rậm Châu Phi tìm kiếm thành phố bị mất tích huyền thoại của bộ lạc Urkartagan.

Trong lúc nhóm cô bị thổ dân da đen bản địa phục kích và bắt sống nên cô vô tình tìm được thành phố bí ẩn này. Cô biết được nghi lễ của bộ lạc này có thể biến người phụ nữ lớn tuổi thành Thần Báo săn, cô đã thực hiện nghi lễ để lấy lại sự trẻ trung và bất tử sau khi hiến tế người đồng hành của mình nhưng yêu cầu của nghi lễ người phụ nữ phải là trinh nữ nhưng Minerva thì không đủ điều kiện, do đó, thay vì cho cô ấy tuổi trẻ và sức sống, sau khi chuyển đổi (biến hình), cô trở nên yếu ớt hơn, chỉ vào đêm trăng tròn, khi cô trở thành Cheetah, cô sở hữu tất cả sức mạnh của loài báo. Điều này đã biến Barbara thành một sinh vật nửa người nửa báo và sở hữu siêu tốc độ, móng vuốt, răng nanh cùng thính giác cực nhạy.

Tuy nhiên, mọi thứ đều phải trả bằng một cái giá nào đó. Cheetah mất đi dáng thể con người vốn có, khát máu và luôn thôi thục bởi bản năng săn mồi của loài động vật. Chính những điều này khiến cô ta ôm mối hận muốn hủy hoại Wonder Woman vì cho rằng chính cô đã không kịp ngăn cản và đẩy Minerva vào bước đường tăm tối này, sức mạnh to lớn của ả. Những móng vuốt sắc bén cùng sự tinh tường trong bóng đêm và khả năng cận chiến tuyệt vời khiến Cheetah trở thành kẻ khó đối đầu. Một trong những khả năng đáng sợ nhất của Cheetah đó là lực cắn cực mạnh, gây sát thương lớn thậm chí có thể tiêu diệt nạn nhân (thực tế thì lực cắn của báo săn khá yếu). Cheetah đã từng chạm trán với Superman và phát cắn của Cheetah đã xuyên thủng cơ thể của Superman.

Nhân vật Cheetah thời kỳ đầu không sở hữu siêu năng lực mà đến phiên bản của Barbara Minerva thì mọi chuyện mới trở nên thú vị hơn khi ả ta có được sức mạnh từ vị thần Urzkartaga. Ban đầu, năng lực của Barbara khá yếu và chỉ có thể biến hình vào mỗi dịp trăng tròn. Nhưng sau này nhờ sự giúp đỡ của phù thủy Circle mà cô đã khắc phục được nhược điểm này. Thậm chí còn có thể biến hình từ người sang thú và ngược lại một cách dễ dàng. Mặc dù Barbara Minerva là phiên bản mạnh mẽ nhất của Cheetah, nhưng có một sự thật cô không phải là người đánh bại được Diana. Thay vào đó lại là Priscilla Rich, phiên bản đầu tiên và không có bất cứ khả năng siêu nhiên. Ở loạt truyện 12 mang tên Justice, Priscilla đã hiến tế những con báo để có được linh hồn của chúng.

Đồ họa về một nữ thú nhân báo săn

Nghi thức này không chỉ cho cô sức mạnh, sự nhanh nhẹn của chúng mà còn cả bộ móng vuốt tẩm thuốc độc có thể hạ sát bất cứ ai. Trong khi chiến đấu với Wonder Woman ở đầu truyện thứ 5, Cheetah đã tấn công khiến Diana bị nhiễm một loại chất độc có tác dụng chậm. Đến tập truyện cuối cùng, mặc dù đã tiêu diệt được kẻ thù nhưng Wonder Woman vẫn phải hy sinh. Sau khi thi thể cô được đưa về quê nhà, nữ hoàng Hippolyta đã tạo ra một khuôn bằng đất sét của con gái mình và cầu xin các vị thần ban cho nó sự sống, qua đó hồi sinh nữ anh hùng để tiếp tục hành trình trừ gian diệt bảo phổ độ công bình của bản thân con đường mình đã chọn.

Trong nguyên tác, nhân vật Cheetah sở hữu sức mạnh khủng bộ, độ bền vật lý của Cheetah đủ để chịu được những cú đòn từ cả Wonder WomanSuperman. Tuy nhiên độ bền của Cheetah không bảo vệ cô ta khỏi [đạn]], tia laser hoặc các đòn tấn công xuyên thấu khác. Cheetah sở hữu tốc độ có vẻ nhỉnh hơn cả Wonder Woman. Sự nhanh nhẹn của Cheetah được nâng cao vượt xa mức bình thường của con người. Các giác quan của Cheetah tăng cường, mạnh hơn rất nhiều so với con người bình thường. Móng vuốt và răng nanh của Cheetah cho phép cô cắt xét hầu hết mọi thứ. Ngay cả phần thịt của những con Metahumans siêu bền với con người cũng không thể chống lại.

Với việc nâng cấp sức mạnh của Circe, Minerva có thể giao tiếp và chỉ huy những con báo săn thực sự chiến đấu với cho cô ấy. Với phiên bản của Priscilla Rich và Deborah Domaine thì cô đã thể hiện kỹ năng nhào lộn, thể dục dụng cụ và võ thuật, còn trong phiên bản của Barbara Minerva thì đã thể hiện siêu sức mạnh, sức bền, tốc độ, sự nhanh nhẹn, phản xạ, giác quan và kỹ năng chiến đấu tay đôi, sinh lý của một con báo. Nhân vật Cheetah rất thành thạo trong các cuộc chiến đấu tay đôi, có thể đánh một chọi một với Wonder Woman liên tục. Trước khi bị sức mạnh và lòng tham làm mờ con mắt, Barbara từng là bạn thân của Diana (Wonder Woman). Nhưng khi bị nghi lễ và sức mạnh hắc ám chi phối, tâm trí Barbara đã hoàn toàn trở nên điên loạn và trở thành một con thú hoang dã mất kiểm soát.

Minerva đã chứng tỏ là một nhà tổ chức và nhà chiến thuật có khả năng, đã lãnh đạo giáo phái The Secret Society của riêng mình trong khi vạch ra kế hoạch hình thành Diệt chủng, Cheetah là một chiến lược gia tinh ranh. Những điểm yếu của nhân vật này là vì bị phải lời nguyền của Urzkartaga nên cô luôn trong tình trạng đói và thèm ăn liên tục. Thú tính trong con người Cheetah cao nên thường phải chịu đựng bản chất hung hãn của loài báo. Barbara Minerva thỉnh thoảng sẽ đánh mất bản thân và trí tuệ của mình khi đang ở trong trận chiến do bản năng thiên phú của trạng thái đã biến đổi đang nắm giữ. Khía cạnh này của sức mạnh khiến Minerva/Cheetah hành động theo những xung động khôn lường, xông vào và ăn thịt nạn nhân của cô ấy như một kẻ săn mồi vô tâm.

Trong bộ phim Wonder Woman 1984: Nữ thần chiến binh thì ban đầu Barbara Minerva (Kristen Wiig thủ vai) là chuyên gia đá quý kiêm nghiên cứu sinh vật huyền bí, cô giỏi chuyên môn, nhưng rụt rè, hướng nội, là một nhà khảo cổ học đã có thời gian làm việc cùng Diana (Wonder Woman). Trong khoảng thời gian đó, hai người trở nên thân thiết và chia sẻ với nhau về nhiều thứ. Tuy nhiên, Minerva không phải là một người an phận, cô ta tò mò và đố kỵ. Khi gã thương gia Maxwell Lord (Pedro Pascal) lạm dụng sức mạnh của viên đá ước để trở nên mạnh hơn, Barbara xuất hiện dưới hình dạng một sinh vật lai giữa người và báo. Minerva ước với Lord rằng cô muốn trở thành kẻ săn mồi mạnh hơn tất thảy, chưa từng ai trông thấy hay biết tên.

Từ chỗ là bạn đồng nghiệp của Diana Prince, nhờ quyền năng của viên đá ước ("Dreamstone"), Minerva có được sức mạnh và tốc độ tương tự Wonder Woman. Barbara Minerva đối đầu với Wonder Woman ở cao trào Wonder Woman 1984 trong bộ dạng nửa người nửa báo (nữ thú nhân). Diana đến trụ sở vệ tinh và giao chiến với Barbara khi ngoại hình báo săn sau khi ước mình trở thành động vật ăn thịt đầu bảng. Barbara Minerva đối đầu với Wonder Woman ở cao trào Wonder Woman 1984 trong bộ dạng nửa người nửa báo, Cheetah hiện lên dữ dằn trong bộ dạng người hóa thú và là một kẻ săn mồi đáng sợ. Cô sở hữu bộ lông dày, gương mặt đầy khiêu khích cùng với tốc độ tấn công nhanh nhẹn với những cú cào cấu có hiệu ứng dữ dội đến tóe lửa. Để đánh nhau với nữ quái thú biến hình này, Diana đã phải sử dụng đến bộ giáp Đại bàng vàng[89].

Con thỏ

Cosplay một nàng thỏ ở châu Á

Thỏ thường gắn liền với các vị thần mặt trăng, chị Hằng (Thỏ ngọc) và ý nghĩa phục sinh và là một biểu tượng của sự sinh sôi, tính hình hiền lành, dễ thương, đáng yêu. Theo quan niệm của người Trung Quốc thì con thỏ tượng trưng cho nét thanh lịch, sự nhạy cảm với nghệ thuật, âm thanh và cái đẹp. Trong văn hóa Khmer, thỏ vừa là biểu tượng tôn giáo vừa là biểu tượng cho công lý, hạnh phúc và sự may mắn[90].

Dù vậy, trong văn hóa đại chúng, hình con thỏ Bunny tiếng tăm vang lừng, cổ đeo nơ và con mắt trắng giương lên, có nhiều liên hệ tới hình ảnh hai cái tai thỏ Playboy, cũng không phải là không mang trong nó ngụ ý về sự không đoan chính[91]. Thỏ cái nổi tiếng vì sự mắn đẻ làm cho người ta nảy sinh liên tưởng về khả năng tình dục của chúng nên dùng hình tượng con thỏ làm biểu tượng cho Playboy (các nàng thỏ Playboy) vì thỏ có thể hiểu là một ám chỉ hài hước, đồng thời còn là một hình tượng hoạt bát thú vị. Chú thỏ sành điệu thắt cà vạt với đôi tai vểnh đã tồn tại tới tuổi 50, hình ảnh Bunny trên trang bìa tạp chí Playboy đã trở thành một trong những hình ảnh đắt giá và phổ biến nhất trên thế giới[92]

Con khỉ

Trong nền văn hóa phương Tây, hình ảnh con khỉ trở nên gần gũi hơn trong nền văn hóa đại chúng phương Tây qua hình tượng King Kong là con khỉ đột khổng lồ. Những tác phẩm về khỉ có Hành tinh khỉ (La Planète des Singes) là một tiểu thuyết do Pierre Boulle viết năm 1963, từ singe bao gồm cả "vượn" và "khỉ", sau được dựng thành nhiều bộ phim. Trong văn hóa đại chúng phương Tây có hình ảnh chú khỉ Abu là chú khỉ nghịch ngợm trong Bộ phim Aladin và cây đèn thần (sau này con được dựng thành phim năm 2019), chú khỉ này là bạn tri kỷ của Aladin.

Khi Aladdin tìm được cây đèn, khỉ Abu bị mê hoặc bởi một viên hồng ngọc khổng lồ và cố gắng lấy trộm nó, khiến cho cả hang động bắt đầu sụp xuống, nhưng may mắn là thảm thần đã giúp họ thoát chết. Tới cửa hang, Jafar lấy chiếc đèn và cố gắng giết họ nhưng chú khỉ đã nhanh tay lấy lại đèn thần và cắn vào tay lão, khiến lão vô tình ẩn họ xuống lại hang đúng lúc nó sập xuống. Khi Aladdin tỉnh lại, Abu đưa anh cây đèn, sau đó Jafar giam cầm nhà vua và công chúa, biến Aladdin trở lại bộ quần áo rách rưới, và ném anh cùng khỉ Abu và thảm thần đến vùng đất xa tít đầy bão tuyết.

Trong số những con khỉ nuôi được biết đến nhiều nhất, khỉ mũ là người bạn đồng hành của những người bán hàng dạođánh đàn dạo ở phương Tây. Loài khỉ mũ (khỉ Capuchin) hay khỉ mũ mặt trắng đã trở nên phổ biến trên các phương tiện truyền thông Bắc Mỹ, chúng được sử dụng là nhân vật trong những bộ phim điện ảnh như con khỉ Crystal vào vai chú khỉ Dexter, một chú khỉ khó chịu và ngỗ nghịch trong phim Đêm kinh hoàng rồi Đêm kinh hoàng 2The Hangover Part II, trong loạt phim Cướp biển vùng Caribbean có chú khỉ Chiquita đóng vai khỉ Jack (thú cưng của thuyền trưởng Hector Barbossa) và còn hiện diện trong bộ phim kinh dị: Mãng xà: Phong huyết lan (tên gốc: Anacondas: The Hunt for the Blood Orchid) với hình ảnh chú khỉ với nét biểu cảm sự sợ hãi tột độ khi thấy những con mãng xà.

Con chó

Chú chó Rantanplan trong trong truyện tranh Lucky LukeChú chó linh vật tại World Cup 94

Ngoài ý nghĩa trong văn hóa truyền thống, trong đời sống, hình ảnh con chó cũng xuất hiện khá nhiều. Người ta hay dùng khái niệm Nút chân chó (sheepshank) là một loại nút dây dùng để rút ngắn một dây thừng hoặc thâu gọn phần dây chùng. Động tác bơi của loài chó cũng được con người học hỏi để phóng tác thành kiểu bơi chó, người bơi kiểu này thở đơn giản, thậm chí không cần ngụp đầu xuống nước. Trong trò chơi số đề, người chơi đề có rất nhiều cách đoán kết quả, người bình dân thì nằm , thấy con gì đánh vào con đó, trong đó con chó ứng với các số 11 - 51 - 91.

Trong quan hệ tình dục, những động tác giao phối của loài chó (chó lẹo) được con người mô phỏng và biến thể thành một trong những tư thế khi giao hợp, đó là tư thế kiểu chó tức người cho đưa dương vật vào từ phía sau, người nhận quỳ bằng cả tay và chân, thân song song mặt sàn. Người cho có thể nắm tóc của người nhận để làm điểm tựa và dễ điều khiển. Một biến thể của kiểu chó là người nhận chúi xuống phía trước, người cho có thể nâng hông của mình lên để có thể đưa dương vật đâm vào sâu nhất. Ngoài ra còn Kiểu chó đứng thẳng là biến thể của kiểu chó, người nhận quỳ thẳng thân.

Một số chú chó nổi tiếng trong văn hóa đại chúng như:

  • Rex - Chú chó thám tử (Inspector Rex) là chú chó chăn cừu Đức (Berger) trong vai trò là một chú chó cảnh sát tên Rex trong phim cùng tên.
  • Lassie trong phim Lassie về nhà (Lassie Come Home), là cô chó Collie lông dài sống trong gia đình thợ mỏ thất nghiệp Carracloug ở Yorkshire, Anh nhưng do kinh tế khó khăn nên phải bán cho một công tước, công tước chuyến đến Scotland - cách xa Anh khoảng 600 cây số nên cô chó thực hiện hành trình trở về với Joe Carracloug và cuối cùng cũng gặp lại lại được người chủ của mình.
  • Wishbone trong phim truyền hình Wishbone - Chú Chó Nhỏ và Màn Kịch Lớn (Wishbone) (1997), là một chú Chó sục Jack Russell ngoan, lúc nào cũng tưởng tượng ra một thế giới song song của văn học cổ điển cùng tồn tại với thế giới thực của chú và người bạn là con người của mình.
  • Buck trong phim Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of te Wind) (2020), là con chó lai giữa St. Bernard Collie lông dài sống trong gia đình giàu có nhưng mọi sóng gió và trở thành chó kéo xe, sau nhiều biến cố Buck quay lại bản tính hoang dã và sống chung bầy sói.
  • Enzo trong phim The Art of Racing in the Rain (2019), một con chó Golden Retriever là người bạn thân thiết của tay đua F1 nổi tiếng Denny Swift.
  • Bella trong phim Đường về nhà của cún con (A Dog's Way Home) (2019), một con chó Pit bull do ải mê đuổi sóc, đi lạc rất xa khỏi căn nhà, sợ Lucas Ray cô đơn một mình nên bất chấp mọi rủi ro để tìm đường về nhà.
  • Belle trong phim Belle và Sébastien: Tình bạn bất diệt (Belle and Sébastien) (2013) và Belle & Sebastian: The Adventure Continues (2015), một cô chó giám hộ gia súc bị dân làng xua đuổi vì bị coi là quái thú ăn thị cừu, sau đó nó gặp Sébastien kết thân và làm bạn, cả hai cùng giúp dân làng khỏi quân phát xít và tìm Angélina - mẹ của Angélina rồi cuối cùng hai mẹ con cũng được đoàn tụ.
  • Bailey trong phim Mục đích sống của một chú chó (A Dog's Purpose) (2017) và Hành trình của chú chó Bailey (A Dog's Journey) (2019), là con chó lai giữa Chó săn thỏ, chó chăn cừu Đức (Berger), chó sục đã trải qua nhiều lần lần đầu thai với rất nhiều chủ nhưng với Ethan là nhớ nhất và đầu thai thêm lần nữa để bảo vệ Hannah - vợ của Ethan.
  • Friday (Chó sục Jack Russell), George (Chó sục Boston), Lenny (Chó ngao Anh) trong phim Khách sạn cún cưng (Hotel for Dogs) (2009) và những con chó khác là những con chó được Andi và Bruce nhận nuôi nhưng khi cha mẹ nuôi của Andi và Bruce từ chối việc nuôi chó trong nhà, cả hai phải suy nghĩ nhanh chóng và tìm một ngôi nhà mới cho thú cưng của mình. Họ tình cờ gặp một ngôi nhà bỏ hoang và quyết định đây là nơi dừng chân lý tưởng của chú cún nhỏ. Với sự sáng tạo của mình, cả hai biến ngôi nhà thành một khách sạn chó vô cùng đặc biệt.
  • Con chó săn của dòng họ Baskerville (The Hound of the Baskervilles) (1981), một con chó săn hound sát thủ trong câu chuyện về thám tử Sherlock Holmes trong phim cùng tên .
  • Hachi trong phim Hachikō: Chú Chó Trung Thành (Hachi: A Dog's Tale) (2009) , một con chó Akita Inu rất trung thành với Parker Wilson - chủ của Hachi, dù ông chủ qua đời thì cứ theo thói quen là ra nhà ga chờ ông và chờ rất nhiều năm đến khi Hachi qua đời (dựa vào một con chó Akita Inu có thật tên là Hachikō). Chó Hachikō nổi tiếng khắp Nhật Bản do trung thành với chủ ngay cả sau khi người chủ đã chết nhiều năm.
  • Mari trong phim Mari và ba chú cún (A Tale of Mari and Three Puppies) (2007), là cô chó Shiba Inu bị ba của Ishikawa Ryota ghét nhưng sau đó ông đã xin lỗi vì con chó đã báo trước là có tận dộng đất chūetsu xảy ra và cứu được gia đình Ishikawa và ba đứa con của nó.
  • Alpha trong phim Người thủ lĩnh (Alpha) (2018) là một con sói nhưng sau này đã đươc thuần hóa mà những con sói thuần hóa gọi là chó.
  • Quill trong Chú chó Quill (Quill) (2004), là con Chó tha mồi Labrador được huấn luyện để dẫn đường cho những người khiếm thị và được nuôi bởi ông Watanabe Mitsuru - một người đàn ông cô đơn và bị mù, ban đầu không mặn mà với Quill nhưng khi nghe con gái ông là Watanabe Mitsuko thuật lại câu chuyện thì ông được phụ hồi và ông bắt yêu mến nó.
  • Maya, Old Jack, Shorty, Dewey, Truman, Shadow, Buck, Max trong phim Âm Tám Độ (Eight Below) (2006), là tám con chó kéo xe của Shepard.
  • Marley trong phim Marley và tôi (Marley & Me)] (2008), một con Chó tha mồi Labrador là thú cưng của cặp vợ chồng mới cưới John Grogan và Jenny Grogan để để kiểm tra mức độ sẵn sàng nuôi dưỡng gia đình của họ.
  • Beethoven trong phim Beethoven (1992), một con chó St. Bernard đi lạc vào nhà người đàn ông tên George Newton. Tuy nhiên, với tính cách gia trưởng và tham công tiếc việc của mình, anh ta không hề để tâm đến con vật này. Cuối cùng, Beethoven cũng chiếm được trái tim của George và gia đình anh ta khi giúp họ vượt qua một số vấn đề không lường trước được.
  • Benji trong phim cùng tên và những phim liên quan vào những năm 1974, 1976, 1977, 1978, 1979, 1980, 1981, 1983, 1987, 2001, 2004, 2018, là con chó lai nhỏ, đáng yêu với sở trường kỳ lạ là ở đúng nơi, đúng lúc, thường là để giúp ai đó vượt qua khó khăn.
  • Luath (Chó tha mồi Labrador), Bodger (là giống Chó sục bò) trong phim The Incredible Journey (1963), là những con chó cùng với con mèo Xiêm Tao bị lạc mất chủ, sau vất vả thì cũng gặp được người chủ của mình là Peter Hunter.
  • Chance Chó bò Mỹ, Shadow Golden Retriever trong phim Hành trình trờ về nhà: cuộc hành trình mạo hiểm (Homeward Bound: The Incredible Journey) (1993), là những con chó cùng với con mèo Himalaya đều được gửi cho người bạn thân thiết vì chủ chuyển nhà nhưng chúng không biết và tưởng bị bỏ rơi nên quyết tâm tìm đường quay trở về. Chúng vượt qua dãy Sierra dài hơn 400 km ở miền Tây nước Mỹ để được đoàn tụ với chủ cũ.
Chú chó Milu trong Tintin, ở Việt Nam, nhiều người ưa đặt tên cho chó cưng của mình là con Mi-lu
Hóa trang chú chó Scooby Doo (hình trên) và Bộ đồ về chú chó Pluto (hình dưới).
  • Winn-Dixie trong phim Bởi vì Winn-Dixie (Because of Winn-Dixie), một chú chó mồ côi được Opal nhận nuôi và đặt tên là Winn-Dixie (đặt theo tên của một chuỗi siêu thị ở Mỹ). Với sự thông minh của mình, Winn-Dixie không chỉ “đánh cắp” trái tim của cộng đồng tại thị trấn nhỏ mà còn giúp hàn gắn mối quan hệ rắc rối giữa cô với cha mình.
  • Khyi Yang Po trong phim Điệp vụ chó xù (The Shaggy Dog) (2006), một con Chó chăn cừu râu dài đã cắn vào người đàn ông nghiện công việc Dave Douglas và đã anh ta thành chính nó. Dưới lốt con chó, Dave bỗng chốc nhận ra sai lầm của bản thân, đồng thời thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của từng người trong gia đình mình.
  • Chiffonn trong phim The Shaggy Dog (1959), là tên một cậu bé tuổi teen Wilbur "Wilby" Daniels bị nguyền rủa với việc định kỳ biến thành một con chó chăn cừu Anh Quốc.
  • Chó Pluto là một nhân vật hoạt hình động vật trong chuỗi nhân vật hoạt hình của Công ty Walt Disney. Chú thường xuất hiện như một con thú nuôi của Chuột Mickey. Pluto trở thành một nhân vật quan trọng trong Mickey Mouse universe và trở thành một trong những nhân vật hoạt hình nổi tiếng nhất mọi thời đại. Chú cũng được xếp thứ 5 trong những nhân vật mọi thời đại của Disney sau Chuột Mickey, Vịt Donald, Chuột Minnie và Goofy. Đầu những năm 1950s khán giả trở nên yêu thích Pluto hơn cả nhân vật thú nuôi đối thủ Mèo Sylvester của Warner Bros. Pluto đứng đầu trong 100 thú nuôi vĩ đại nhất mọi thời đại.
  • Chú chó Goofy là chú chó được nhân cách hoá trong của Hãng phim Walt Disney.
  • Chú chó Rantanplan là chú chó hư cấu trong truyện tranh Lucky Luke. Tên của Rantanplan được đặt dựa theo tên Rin Tin Tin. Rantanplan là "chú chó ngốc hơn cả cái bóng của mình". Chú ta thường đi lòng vòng theo Lucky Luke và gây cười cho người đọc bằng sự ngốc nghếch của mình.
  • Chó bò Spike (Chó bò Mỹ) trong Tom và Jerry (Tom and Jerry) là một chú chó dễ nổi giận và vô cùng bạo lực. Thế nhưng Spike lại rất thương chú chó bò con của mình là Tyke, một chú chó ngây thơ và đáng yêu. Spike có bề ngoài to béo với những đặc điểm thường thấy của giống chó ngao là có hai má chảy xuống.
  • Cô chó cái Lady trong Tiểu thư và chàng lang thang (Lady and the Tramp) (1955) là một nàng chó Tây Ban Nha lông dài mượt, đôi tai to rủ xuống dịu dàng.
  • Anh chàng chó lang thang Tramp (Chó Sục Miniature Schnauzer) trong Tiểu thư và chàng lang thang (Lady and the Tramp) (1955) xuất hiện làm thay đổi cuộc đời Lady. Tramp vốn là một chú chó sống tự do, không vướng bận chuồng nhốt hay vòng xích, cũng chẳng phải vẫy đuôi với người chủ nào.
  • 101 chú chó đốm (101 Dalmatians) (1996) (Chó đốm): Kể về việc những con chó đốm mới sinh của gia đình biến mất. Sau này có thêm phim 101 con chó đốm II: Luân Đôn Phiêu lưu của Patch (101 Dalmatians II: Patch's London Adventure) (2003).
  • Trong phim 101 chú chó đốm (phim) thì một con chó đốm tên là Pongo sống cùng người chủ là một nhạc sĩ độc thân. Roger và chú cún ngồi trong công viên "vô tình" gặp Anita và cô chó đốm Purdy.
  • Chú chó săn Copper (Hound) trong bộ phim Cáo và chó săn (The Fox and the Hound) (1981) và Cáo và chó săn 2 (The Fox and the Hound 2), là bạn của cáo Tod cho đến mùa săn bắn, vì số phận, lại trở thành đối thủ của nhau.
  • Chú chó nhút nhát Courage trong Chú chó nhút nhát Courag (Courage the Cowardly Dog), còn được biết là Chú chó ngốc nghếch và Chú chó nhú nhát trong loạt phim hoạt hình kinh dị, hài hước dài tập của Mỹ.
  • Scooby-Doo trong phim Scooby-Doo (2002), là con chó Great Dane hài hước, vui nhộn, tham ăn và sợ ma, mặc dù giống chó Great Dane của chú ngoài đời vô cùng to lớn, dũng mãnh và gan dạ.
  • Chú chó lai Balto trong Balto (Chó Husky Sibir) (1995) là một chú chó husky sibir sống lang thang ở thị trấn Nome.
  • Con chó Dug trong phim Up (2009) có đeo một vòng cổ đặc biệt cho phép nó có thể nói được.
  • Con chó Bolt trong phim Tia chớp (Bolt) (2008) (Chó chăn cừu Đức), chú chó này đã dành toàn bộ cuộc sống của mình từ khi còn nhỏ trên trường quay của một chương trình truyền hình, bị cô lập với thế giới bên ngoài. Trong chương trình, Bolt phải sử dụng siêu năng lực của mình để cứu chủ nhân và bạn diễn Penny, người mà anh vô cùng yêu quý, khỏi Tiến sĩ Calico độc ác.
Tuy nhiên, Bolt tin rằng anh ta thực sự có siêu năng lực mà nhân vật truyền hình của anh ta sở hữu, một ảo tưởng mà các đạo diễn của chương trình duy trì bằng cách lừa Bolt nghĩ rằng cuộc phiêu lưu của anh ta là có thật, để làm cho màn trình diễn của anh ta chân thực hơn.
  • Cô cún Bella trong một số tập của phim hoạt hình truyền hình Ngôi nhà vui vẻ của chuột Mickey (Mickey Mouse Clubhouse) (2006, 2008, 2009, 2012), một con cún cưng của bò Clarabelle và là bạn thân của chó Pluto.
  • Chú chó trắng Snowy hay còn gọi là Milou (Chó sục cáo lông xoăn) là một chú chó trắng, người bạn rất già bốn chân rất rất trung thành của Tintin trong bộ truyện và phim hoạt hình Những cuộc phiêu lưu của Tintin. Cậu rất rất thường hay "nói" với người đọc qua suy nghĩ của mình. Tên gọi của chú chó này rất thịnh hành ở Việt Nam, nhiều người nuôi chó ưa đặt tên Mi-lu cho những chú chó cưng của mình
  • Chú chó Peko (Bụng Rỗng) trong Doraemon: Nobita thám hiểm vùng đất mớiDoraemon: Tân Nobita thám hiểm vùng đất mới - Peko và 5 nhà thám hiểm, một chú chó màu trắng được Nobita lượm về và nó tìm ra một vùng đất bí ẩn ở châu Phi.
  • Chú chó Ichi (Số Một) trong Doraemon: Nobita ở vương quốc chó mèo, một chú chó dễ thương ở sân bóng được Nobita lượm về và đã đưa chúng về thời điểm 300 triệu năm trước (khi con người và khủng long chưa hề tồn tại).
  • Inu Yasha (Khuyển Dạ Xoa) là nhân vật chính trong bộ truyện tranh manga và phim hoạt hình anime cùng tên Inu Yasha. Chữ "Inu" 犬 (viết theo bộ hiragana là いぬ) nghĩa là "chó". Chữ "Yasha" 夜叉 (viết theo bộ hiragana là やしゃ) bắt nguồn từ chữ "Yaska" trong tiếng Phạn यक्श, nghĩa là "linh hồn", trong trường hợp này có thể hiểu là "quỷ". Vì vậy Inu Yasha hay được phiên ra tên Hán Việt là "Khuyển Dạ Xoa".
  • Sesshomaru (Sát Sinh Hoàn) là anh cùng cha khác mẹ với Inu Yasha trong anime cùng tên.
  • Inu no Taishou (Khuyển Đại tướng) là một nhân vật trong loạt truyện tranh manga và phim hoạt hình anime Inu Yasha của tác giả Takahashi Rumiko. Tên ông có nghĩa là yêu quái chó vĩ đại.
  • Ninken là những chú chó ninja được Kakashi sử dụng thuật triệu hồi để goị trong Naruto.
  • Chú cún con Momo là nhân vật trong Cún con Momo là con chó dễ thương thuộc giống Pembroke Welsh Corgi.
  • Chú chó Waldi là Linh vật chính thức trong Thế vận hội Mùa hè 1972, cũng chính là linh vật đầu tiên của thế vận hội năm 1972.
  • Chú chó linh vật trong Giải vô địch bóng đá thế giới năm 1994 tổ chức tại Mỹ (Worldcup - USA 1994)
  • Chó ba đầu Fluffy là sinh vật họ chó, xuất hiện duy nhất tại tập một trong Sinh vật huyền bí trong Harry Potter.
  • Doge, một meme lan truyền trên mạng internet, trở nên nổi tiếng vào năm 2013.

Anh gấu

Những anh gấu đang diễn hành ở Portland, Oregon (2015)

Bên cạnh hình tượng con gấu hùng mạnh, trong văn hóa đại chúng ngày nay ở phương Tây, con gấu còn là từ lóng dùng để chỉ về những người đàn ông đồng tính nam có những đặc điểm như những con gấu. Theo đó, trong văn hóa đồng tính nam, một anh Gấu thường là một người đàn ông da trắng to cao lớn bự, râu ria xồm xoàm, nhiều lông lá, thể hiện một phẩm chất nam tính thô ráp, một anh gấu cũng thể hiện những đặc điểm tình dục phụ của nam giới như lông tóc rậm rạm, kích thước và chứng hói đầu[93]. Trong khi đó, Rái cá là một người đồng tính nam có chiều cao/trọng lượng, lông lá tương ứng với người đàn ông mảnh mai, có nét mềm mại, nữ tính[94].

Gấu xuất hiện trong nhiều cộng đồng đồng tính luyến ái LGBT, gấu xuất hiện nhiều trong các sự kiện, biệt danh và xuất hiện nhiều trong các bản sắc văn hóa ở phương Tây. Tuy nhiên, ở San Francisco vào những năm 1970, bất kỳ người đàn ông đầy lông lá nào cũng được gọi là gấu cho đến khi thuật ngữ “gấu” dùng để chỉ những người đàn ông to lớn hơn và những từ khác thay thế để mô tả những người đàn ông lông lá khác như "rái cá" với thân hình thanh mảnh, hoặc "chó sói" với thân hình tầm trung[95], trong văn hóa phương Tây thì loài rái cá cũng là sinh vật biểu tượng cho nữ tính.

Nội hàm từ gấu có thể hoạt động như một bản sắc gắn kết chủng tộc, và cũng có cuộc tranh luận quyết liệt nảy sinh trong cộng đồng những anh gấu về những gì thực sự được coi là một anh gấu, một số có tầm quan trọng trong việc trưng ra một hình ảnh nam tính rõ rệt và có thể khinh thường hoặc tránh xa những người đàn ông có biểu hiện sự nữ tính mềm mại như “rái cá”[96]. Ở châu Âu, ngay sau khi văn hóa mặc quần áo da phát triển từ những người chạy xe máy đồng tính liên kết thành các hiệp hội trong những năm 1970, cùng với các mối quan hệ đực rựa đồng tính của những gã đàn ông thích làm tính với những người đàn ông râu ria và nhiều lông lá, nhiều sự kiện biến thái LGBT thu hút một số lượng lớn đàn ông đồng tính luyến ái đực con gấu đáng kể sau đây, chẳng hạn như Suy đồi trụy miền Nam[97].

Gấu trúc

Biểu tượng của WWF

Trong mười biểu tượng của Trung Quốc mà phần lớn là các công trình kiến trúc đồ sộ, danh nhân văn hóa lừng lẫy thì có gấu trúc (gấu trúc lớn) là một loài động vật sống ở vùng núi tỉnh Tứ Xuyên, gấu trúc mang đến hình ảnh thân thiện với mọi người, mọi quốc gia dù thể chế chính trị khác nhau, thể hiện xu hướng hội nhập với thế giới vì coi trọng và bảo vệ thiên nhiên (logo của Quỹ bảo tồn thiên nhiên Quốc tế - WWF). Hiện nay, gấu trúc trở thành một biểu tượng văn hóa nổi tiếng của Trung Quốc, được Hollywood dựng thành phim, thể hiện bằng nhiều vật phẩm văn hóa nên ngày càng phổ biến rộng rãi trên thế giới[98] (ví dụ như Kungfu Panda). Những con gấu trúc còn là đối tượng cho chính sách ngoại giao gấu trúc của Trung Quốc.

Gấu trúc Xiao Liwu tại vườn thú San Diego

Các con gấu trúc ngoại giao của Trung Quốc khá nổi tiếng như con gấu trúc Vân Tử (Yun Zi;云子/ 雲子, có nghĩa là "đứa con của gió") được sinh ra tại vườn thú San Diego Zoo vào ngày 5 tháng 8 năm 2009[99] Vân Tử chào đời cân nặng 113 gram, là con thứ năm của gấu trúc mẹ Bạch Vân, và là đứa con thứ tư của gấu trúc bố Gao Gao. Vân tử có một chị gái cùng mẹ tên Hua Mei, có 2 em trai ruột tên Mei Sheng và Xiao Liwu, 2 em gái tên Su Lin và Zhen Zhen. Cái tên "Vân Tử" đã được lựa chọn từ danh sách hơn 6300 tên theo đề nghị của người hâm mộ. Lễ đặt tên được tổ chức vào 17 tháng 11 năm 2009 khi Vân Tử được 104 ngày tuổi.

Nhiều người yêu mến gấu trúc đã tập trung tại vườn thú San Diego để tham dự sự kiện đặc biệt này. Vân Từ xuất hiện lần đầu trước công chúng vào ngày 7 tháng 1 năm 2010 khi được 155 ngày tuổi. Vân Tử được cai sữa vào tháng 2 năm 2011. Vân Tử là con gấu trúc thứ 5 chào đời tại vườn thú này. Vườn thú đã mở hẳn một trang web để mọi người có thể truy cập, xem thông tin về gấu trúc mẹ Bai Yun và gấu trúc con Vân Tử. Vân Tử đã được đưa trở về Trung Quốc vào tháng 1 năm 2014. Vân Từ hiện đang sống tại Trung tâm Duijiangyan (một trung tâm bảo tồn và nghiên cứu loài gấu trúc lớn).

Su Lin (苏琳) là một gấu trúc cái được sinh ra tại vườn thú San Diego vào ngày 2 tháng 8 năm 2005. Tên "Su Lin" được chọn ra trong một đợt bình chọn trực tuyến trên internet,"Su Lin" trong tiếng Trung có nghĩa là "một viên ngọc bích đẹp".[100][101] Su Lin là con thứ ba của gấu trúc mẹ Bai Yun, và là con thứ ba của gấu trúc bố Gao Gao. Su Lin có một chị em cùng mẹ là Hua Mei và các anh em ruột bao gồm Mei Sheng, Zhen Zhen, Vân Tử, Xiao Liwu. Su Lin được ra mắt công chúng vào tháng 12 năm 2005,và được cai sữa vào đầu năm 2007. Su Lin cùng với Zhen Zhen đã được gửi về trung tâm Bifengxia Panda Base, Trung Quốc vào ngày 24 tháng 9 năm 2010.[102][103]. Xiao Liwu (小礼物;"Món quà nhỏ") là một con gấu trúc sinh ra tại vườn thú San Diego[104]. Xiao Liwu là con thứ sáu của gấu trúc mẹ Bạch Vân (Bai Yun) và là con thứ năm của gấu trúc bố Gao Gao. Xiao Liwu có một chị gái cùng mẹ tên là Hua Mei, có hai anh em ruột là Mei Sheng và Vân Tử (Yun Zi), và 2 chị gái ruột là Su Lin và Zhen Zhen[105].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hình_tượng_loài_thú_trong_văn_hóa http://baotanglichsuvn.com/bo-than-nandin-limoaw-k... http://cbs2.com/local/Panda.Cub.Name.2.1318202.htm... http://www.cbsnews.com/8301-205_162-57508413/its-a... http://www.gaypopbuzz.com/gay-wolves-guide/ http://books.google.com/books?id=sDfQpNfdlMQC http://comics.ign.com/top-100-villains/69.html http://www.livescience.com/24741-san-diego-panda-n... http://www.pandasliveon.com/giantpandas/2010/09/go... http://www.southerndecadence.net http://blogs.sandiegozoo.org/blog/2010/09/25/make-...